Ước tính của Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 11/2022 đạt 1,1 tỷ USD, giảm 8,3% so với tháng 10/2022 và giảm 14,6% so với tháng 11/2021. Trong đó, xuất khẩu sản phẩm gỗ ước tính đạt 713 triệu USD, giảm 8,1% so với tháng 10/2022 và giảm 23% so với tháng 11/2021.
Ước tính của Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tháng 11/2022 đạt 1,1 tỷ USD, giảm 8,3% so với tháng 10/2022 và giảm 14,6% so với tháng 11/2021. Trong đó, xuất khẩu sản phẩm gỗ ước tính đạt 713 triệu USD, giảm 8,1% so với tháng 10/2022 và giảm 23% so với tháng 11/2021. Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11/2022, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước tính đạt 14,6 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2021; Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 10,1 tỷ USD, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2021.
Những bất ổn do cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine dẫn tới hạn chế về chuỗi cung ứng, vấn đề hậu cần và áp lực lạm phát tăng mạnh, cùng với sự mất giá của các đồng tiền chính so với đồng USD, là những yếu tố cản trở dẫn đến sự tăng trưởng chậm của ngành gỗ trong năm 2022.
Trong đó, đồ nội thất bằng gỗ luôn là mặt hàng xuất khẩu chính trong cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu trong 10 tháng năm 2022, trị giá xuất khẩu của mặt hàng này tăng trưởng mạnh góp phần thúc đẩy ngành gỗ tăng trưởng khả quan.
Tuy nhiên, nhiều thị trường nhập khẩu chính nhóm hàng này của Việt Nam như Mỹ, EU, Anh đều chịu áp lực lạm phát cao, khiến nhu cầu tiêu thụ nhóm hàng này chậm lại. Do đó, mức độ tăng trưởng về trị giá xuất khẩu đồ nội thất bằng gỗ đã chững lại trong 10 tháng năm 2022, đạt 8,5 tỷ USD, chỉ tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2021 (trong cùng kỳ năm 2021 nhóm hàng này đạt tốc độ tăng trưởng là 21,7%), chiếm 62,8% tổng trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.
Tỷ trọng xuất khẩu hầu hết các mặt hàng trong cơ cấu mặt hàng đồ nội thất bằng gỗ đều giảm, trừ mặt hàng đồ nội thất nhà bếp. Trong đó, ghế khung gỗ là mặt hàng có mức giảm mạnh nhất, đạt 2,5 tỷ USD, giảm 14,1% so với cùng kỳ năm 2021, tỷ trọng chiếm 18,5% tổng trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, giảm 5,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2021.
Đáng chú ý, trong 10 tháng năm 2022, trị giá xuất khẩu dăm gỗ, viên gỗ, cửa gỗ và đồ gỗ mỹ nghệ có tốc độ tăng trưởng cao, tuy nhiên trị giá xuất khẩu những mặt hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp ngành gỗ, Bộ NN&PTNT vừa đề nghị Bộ Tài chính chỉ đạo các cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến thuế giá trị gia tăng (VAT).
Mới đây, Bộ NN&PTNT có công văn gửi Bộ Tài chính đề nghị tháo gỡ khó khăn đối với việc hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) cho doanh nghiệp ngành gỗ.
Cụ thể, Bộ NN&PTNT đã nhận được văn bản số 107 của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam về việc tháo gỡ khó khăn đối với việc xác nhận nguồn gốc gỗ rừng trồng trong việc hoàn VAT.
Nội dung văn bản kiến nghị những khó khăn, vướng mắc trong việc xác minh nguồn gốc để hoàn VAT đối với mặt hàng gỗ có nguồn gốc từ rừng trồng trong nước theo chỉ đạo của Tổng cục Thuế tại các văn bản số 429; số 2124, số 2928, số 4569. Từ đó dẫn đến ách tắc trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ có nguồn gốc từ rừng trồng trong nước.
Bộ NN&PTNT cho biết trong những năm qua, gỗ khai thác từ rừng trồng trong nước là nguồn cung chủ yếu và quan trọng, đáp ứng khoảng 75% nhu cầu nguyên liệu, giúp cho ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam liên tục tăng trưởng, năm 2021, giá trị xuất khẩu đạt 16,3 tỷ USD, tăng 19,8% so với năm 2020.
Theo quy định tại các Điều 15, 16 và 20 Thông tư số 27 của Bộ NN&PTNT quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản thì gỗ có nguồn gốc từ cây phân tán, vườn, rừng trồng trong nước đã đảm bảo về nguồn gốc hợp pháp, người dân tự quyết định việc khai thác, tự lập bảng kê lâm sản, tự do lưu thông và không phải xác nhận về nguồn gốc của cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, việc xác minh nguồn gốc gỗ khai thác trong nước theo phương pháp kiểm tra, xác minh thông qua UBND cấp xã và các cơ quan liên quan của cơ quan thuế là chưa phù hợp.
Ngoài ra, văn bản số 2124 của Tổng cục thuế xác định các doanh nghiệp và ngành nghề có rủi ro trong việc hoàn VAT, trong đó chỉ đánh giá trên cơ sở các công ty sản xuất và kinh doanh ván dán.
Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu các sản phẩm đồ mộc nội thất, ngoại thất, dăm gỗ và viên nén đều bị xem xét là có nguy cơ rủi ro cao trong việc hoàn VAT.
Do vậy, cơ quan thuế cần có những đánh giá kỹ lưỡng hơn trong việc phân loại, áp dụng rủi ro đối với các sản phẩm gỗ, nhất là đối với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có uy tín.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 73, Điều 75 Luật Quản lý thuế năm 2019: Hồ sơ hoàn thuế thuộc loại rủi ro về thuế cao theo phân loại quản lý rủi ro trong quản lý thuế là hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước hoàn thuế.
Thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế chậm nhất là 40 ngày kể từ ngày cơ quan quản lý thuế có thông báo bằng văn bản về việc chấp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý thuế phải quyết định hoàn thuế cho người nộp thuế hoặc không hoàn thuế cho người nộp thuế nếu hồ sơ không đủ điều kiện hoàn thuế.
Do đó, việc các cơ quan thuế tiến hành xác minh nguồn gốc gỗ của các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và giải quyết hoàn VAT kéo dài nhiều tháng đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp ngành chế biến, xuất khẩu gỗ.
Để giảm bớt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh ảnh hưởng của dịch Covid-19 kéo dài, tình hình kinh tế trong nước và thế giới khó khăn, Bộ NN&PTNT đề nghị Bộ Tài chính xem xét, chỉ đạo các cơ quan hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến VAT.
Nhận xét
Đăng nhận xét